NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VIỆT NAM (2010 - 2021) TIỀM NĂNG - THÁCH THỨC - PHÁT TRIỂN
NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VIỆT NAM (2010 - 2021)
TIỀM NĂNG - THÁCH THỨC - PHÁT TRIỂN
1. Tổng
quan về năng lượng tái tạo Việt Nam
Có thể thấy, nền kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây có sự tăng trưởng khá tốt,
đặc biệt, ngay cả trong năm 2020 vừa qua thì mặc dù bị ảnh hưởng bởi
dịch bệnh COVID, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng GDP
của chúng ta cũng là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP
lớn nhất trên toàn cầu. Song
song, bên cạnh sự phát
triển của nền kinh tế nhanh chóng trong những năm gần
đây thì nhu cầu điện năng đối với đất nước của chúng ta cũng tăng lên
khá nhiều, đối với những nguồn năng lượng truyền thống ví dụ như than, dầu khí thì gần
như cũng đang đang rơi vào tình trạng cạn kiệt. Còn đối với thủy
điện, cũng có thể thấy, thủy điện cũng gây ra những cái hệ lụy
đối với vấn đề thời tiết, có thể thấy, vấn đề
lũ lụt trong thời gian vừa qua, đặc biệt, như tại Trung Quốc, thì đây
cũng chính là vấn đề bất cập đối với những nguồn năng lượng
truyền thống.
Do đó, định hướng phát triển của
nước ta trong những năm gần đây cũng là sẽ hướng sang để phát
triển những nguồn năng lượng tái tạo để
phần nào giải quyết được vấn đề về nhiên liệu cũng như các vấn đề về môi trường
- xã hội.
Trong bày viết này, sẽ trình bày về tình hình năng lượng tái tạo Việt Nam giai đoạn 2010 đến nay cũng như sẽ trình bày về cơ hội - thách thức trong việc phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
Hình
1: Hình ảnh thực tế về hệ thống điện mặt trời và điện gió tại Việt Nam [1]
2. Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo
tại Việt Nam
Đầu tiên, bài viết này sẽ trình bày về tình
hình năng lượng tái tạo Việt Nam từ giai đầu phát triển đến thời điểm hiện tại.
Bên cạnh nhiên liệu hóa thạch, thủy điện cũng là
một phần quan trọng của nguồn cung cấp điện của Việt Nam, chiếm 37,3% tổng
công suất lắp đặt. EVN là bên mua điện duy nhất và độc quyền về truyền tải
và phân phối. Các nguồn năng lượng tái tạo vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng sản lượng điện, nhưng các mục tiêu đầy tham vọng đã được chính
phủ đặt ra.
Về tài nguyên gió tại Việt Nam, một số nghiên cứu đo gió đã
được các
chuyên gia thực hiện. Và kết quả cho thấy, Việt Nam được coi là có tài nguyên gió tốt
nhất ở khu
vực Đông Nam Á, đặc biệt là
ở vùng ven biển phía Nam, Việt Nam. Ở những khu vực này, tốc độ gió trung bình hàng năm từ 9
đến 10m/s được đo. Nói chung, tốc độ gió sẽ giảm sâu hơn trong đất liền. Đặt biệt, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi các tình hình thời tiết xấu như bão và lũ lụt, nghiêm trọng và nặng nề nhất là vào
các tháng 7, 8, 9 và 10.
Về tình
hình cung – cầu điện tại nước ta. Nhu cầu sử dụng điện tại Việt Nam hàng năng
đang tăng 10% so với cùng kỳ năm trước đó.
Bảng 1 dưới
đây sẽ trình bày các chỉ số chính về nhu cầu điện, sản xuất và tiêu thụ trong
giai đoạn 2005-2017.
Bảng 1.
Nhu cầu và sản lượng điện hàng năm [2]
|
2005 |
2009 |
2014 |
2017 |
Nhu cầu hàng năm
(TWh) |
46 |
76 |
128 |
174 |
Sản lượng hàng năm
(TWh) |
54 |
87 |
146 |
197 |
Mức tiêu thụ trên
mỗi người (kWh) |
549 |
873 |
1415 |
1852 |
Năm 2015, sản lượng điện chủ yếu là than với
34,4% trong sản xuất điện, tiếp theo là thủy điện với 30,4% và khí tự nhiên với
30,0%. Do nguồn than và khí đốt trong nước hạn chế, nhập khẩu nhiên liệu
hóa thạch của Việt Nam ngày càng tăng. Việt Nam đã trở thành nước nhập
khẩu năng lượng ròng vào năm 2015 sau khi là nhà xuất khẩu năng lượng ròng
trong một thời gian dài. Ngoại trừ thủy điện, các thị trường năng lượng tái tạo
như năng lượng gió và điện mặt trời đang trong giai đoạn phát triển rất sớm.
Tuy nhiên, nhu cầu năng lượng tăng cao cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên
hạn chế (than, khí đốt và dầu mỏ) tạo cơ hội quan trọng cho sản xuất năng lượng
tái tạo ở Việt Nam.
Do quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng và tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt mức đáng chú ý, mức tiêu thụ năng lượng trong nước đã tăng
với tốc độ gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP vốn đã cao của Việt Nam, tăng
trung bình khoảng 12% mỗi năm từ năm 2006 và 2016. Các ước tính khác nhau
về nhu cầu năng lượng ở Việt Nam thay đổi từ tăng gấp ba lần đến gấp tám lần từ
năm 2015 đến năm 2030. Tổng cục Thống kê Việt Nam ước tính rằng nhu cầu điện sẽ
tiếp tục tăng với tốc độ tăng trưởng hàng năm gần đây là 10% -12%, tăng từ
169,8 (TWh) vào năm 2015 lên 615,2 (TWh) vào năm 2030. Than và thủy điện sẽ
tiếp tục là nguồn điện chính nhưng tỷ trọng năng lượng tái tạo, đặc biệt
là năng lượng mặt trời và gió, sẽ được tăng lên trong tổng sản lượng điện. Tuy
nhiên, tỷ trọng năng lượng mặt trời và năng lượng gió vẫn còn tương đối hạn
chế. Theo Quy hoạch phát triển điện thứ 7 sửa đổi của Chính phủ Việt Nam
từ năm 2016, tỷ trọng sản xuất điện tái tạo sẽ là 6% vào năm 2020 và 27% vào
năm 2030.
Về lưới
điện tại Việt Nam, lưới điện quốc gia của Việt Nam do Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) vận hành. EVN là đơn vị mua điện và độc quyền về truyền tải và phân
phối. Dựa theo Báo cáo thường niên của EVN năm 2016, 100% số huyện được kết nối
với điện, 99,59 trong số các xã và 98,22% hộ gia đình nông thôn được sử dụng
điện lưới. Tuy nhiên, ở nông thôn các khu vực vẫn thường xuyên xảy ra tình
trạng thiếu điện và mất điện. Lưới điện truyền tải và phân phối đang được mở
rộng và nâng cấp đồng bộ với tăng nhu cầu điện năng và công suất phát điện nhằm
giảm thiểu tình trạng mất điện, tổn thất và tăng chất lượng nguồn cung cấp. Quy
hoạch phát triển điện lực quốc gia Việt Nam (QHĐ VII, 2011) có kế hoạch đầu tư
vào việc mở rộng và nâng cấp hệ thống truyền dẫn của 6,7 tỷ USD và hệ thống
phân phối 6,6 tỷ USD trong giai đoạn 2014-2020. Rõ ràng, lưới điện quốc gia là
trung tâm xung quanh hai thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh.
Các công ty con của EVN sở hữu, quản lý, vận hành hệ thống truyền tải và phân phối điện. Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia vận hành lưới điện cao thế (500 và 220 kV). Lưới điện phân phối (110 kV, Trung và Hạ thế) được chia thành các vùng và được vận hành bởi Tổng công ty Điện lực miền Bắc (NPC), Tổng công ty Điện lực miền Trung (CPC), Tổng công ty Điện lực miền Nam (SPC), Tổng công ty Điện lực Hà Nội (HNPC) và TP. Tổng công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh (HCMPC).
3. Thách thức và tiềm năng phát triển của
năng lượng tái tạo tại Việt Nam
Mặc dù, có
tiềm năng về năng lượng tái tạo ở Việt Nam, nhưng thị trường năng lượng tái tạo
vẫn còn rất hạn chế về quy mô. Chính phủ Việt Nam cam kết thúc đẩy năng lượng tái
tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả. Hai mục tiêu chính sách năng lượng tái tạo
chính của chính phủ hiện sẽ được xây dựng dựa trên.
Bộ Công
thương đã điều chỉnh Quy hoạch Phát triển Điện lực lần thứ 7 (PDP7) từ năm 2011
đến năm 2030 vào tháng 3 năm 2016. Trong kế hoạch này, chính phủ nhấn mạnh hơn
vào năng lượng tái tạo. Theo quy hoạch này, tỷ trọng điện sản xuất từ các
nguồn năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện tích năng quy mô lớn, quy mô
vừa và tích nước) sẽ tăng lên khoảng 7% vào năm 2020 và trên 10% vào năm 2030.
Các mục tiêu phụ về tỷ trọng sản lượng điện và công suất lắp đặt được thiết lập
cho năng lượng gió, năng lượng mặt trời, sinh khối và thủy điện. Tổng công suất
điện gió lắp đặt được công bố đạt 800 MW vào năm 2020, 2000 MW vào năm 2025 và
6000 MW vào năm 2030, chiếm 0,8% tỷ trọng sản xuất điện vào năm 2020, 1% vào
năm 2025 và 2,1% vào năm 2030. Quy hoạch phát triển điện lực cũng chỉ ra sự gia
tăng tỷ trọng than cho sản xuất điện. Theo Quy hoạch phát triển điện lực, tỷ
trọng sản xuất điện từ than sẽ chiếm hơn 50% vào năm 2030 trong tổng sản lượng
điện. Do đó, năng lượng tái tạo vẫn là một đối thủ cạnh tranh nhỏ trong ngành
điện của Việt Nam.
Chính phủ
Việt Nam đã thông qua Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo giai đoạn 2016 -
2030 với tầm nhìn đến năm 2050, vào tháng 11 năm 2015 và có hiệu lực vào năm
2016. Chiến lược định hướng phát triển năng lượng tái tạo trong nước, đặt ra
các mục tiêu trung và dài hạn rõ ràng. Trọng tâm, đặc biệt, ở đây là năng lượng
gió, sinh khối và năng lượng mặt trời. Chiến lược Phát triển Năng lượng Tái tạo
đưa ra một loạt các mục tiêu đầy tham vọng về năng lượng tái tạo, với ý định
nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 44% trong tổng mức tiêu thụ năng lượng sơ
cấp vào năm 2050. Tổng lượng điện sản xuất từ phong điện sẽ tăng từ 140 MW
khi hiện lên đến 800 MW vào năm 2020. Chiến lược cũng nêu rõ Việt Nam sẽ thúc
đẩy năng lượng gió trên bờ cho đến năm 2030 và đánh giá tiềm năng năng lượng
gió ngoài khơi cho sau năm 2030[3].
Mặc dù, cả Kế hoạch Phát triển Điện lực và Chiến
lược Phát triển Năng lượng Tái tạo đều chồng chéo, nhưng Kế hoạch Phát triển
Năng lượng Tái tạo bao gồm mức độ tham vọng cao hơn đối với việc triển khai
năng lượng tái tạo.
Các dự án điện thường yêu cầu đầu tư vốn
đáng kể và do đó, thường được tài trợ bằng một phần đáng kể vốn nợ. Nhà phát
triển dự án phải chịu chi phí và rủi ro khi xây dựng nhà máy điện và đấu nối
nhà máy với lưới điện truyền tải. Có một số công cụ tài chính đáng chú ý hiện
có ở Việt Nam để hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo.
Các dự án điện thường yêu cầu đầu tư vốn
đáng kể và do đó, thường được tài trợ bằng một phần đáng kể vốn nợ. Nhà phát
triển dự án phải chịu chi phí và rủi ro khi xây dựng nhà máy điện và đấu nối
nhà máy với lưới điện truyền tải.
Có một số công cụ tài chính đáng chú ý hiện
có ở Việt Nam để hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo.
Nếu đáp ứng các điều kiện liên quan, nhà đầu
tư vào các dự án năng lượng tái tạo có thể vay vốn từ Ngân hàng Phát triển Việt
Nam (VDB) hoặc Môi trường Việt Nam.
Quỹ Bảo vệ (VEPF), hoặc nhận hỗ trợ lãi suất
từ VEPF. VDB, được giám sát trực tiếp bởi Bộ Tài chính Việt Nam, có nhiều lựa
chọn khác nhau cho các dự án năng lượng tái tạo bao gồm các khoản vay trung và
dài hạn, và cho vay lại vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) của Nhật Bản và
Hoa Kỳ. Chủ các dự án năng lượng tái tạo có thể được VDB cho vay tới 70% tổng
chi phí đầu tư với lãi suất tương đương trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng
1% / năm. Đặc biệt, các dự án điện gió có thể đòi nợ từ VDB lên tới 85% chi phí
dự án với thời hạn lên đến 18 năm và thời gian ân hạn lên đến 5 năm.[4]
Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPF) là một
tổ chức tài chính nhà nước nhận tài trợ công ngoài tài trợ từ một số nguồn, bao
gồm tiền phạt, bồi thường thiệt hại và phí bảo vệ môi trường liên quan đến thăm
dò tài nguyên[5]. VEPF cũng quản lý chương
trình trợ cấp cho điện tái tạo được tạo ra từ các nguồn năng lượng mặt trời,
gió, địa nhiệt, thủy triều hoặc mêtan mà chi phí sản xuất vượt quá giá bán. Tuy
nhiên, mặc dù VDB đã rót vốn và VEPF cấp một số khoản trợ cấp cho một số dự án
năng lượng tái tạo, vẫn phải xem việc các đơn vị này có thể nhận được nguồn vốn
và trợ cấp trong tương lai dễ dàng như thế nào[6]. Cuối cùng, một phần của
Chiến lược Phát triển Năng lượng Tái tạo 2016 - 2030 là thành lập quỹ Khuyến
khích Năng lượng Bền vững. Quỹ này sẽ được tài trợ bởi ngân sách nhà nước và
nguồn thu từ phí môi trường thu được từ nhiên liệu hóa thạch.
Không chắc, chỉ riêng các ngân hàng trong
nước của Việt Nam sẽ có thể cung cấp đủ vốn để tài trợ cho các dự án nhằm đạt
được các mục tiêu của Chính phủ[7]. Vì vậy, nguồn tài trợ của
Quốc tế là rất quan trọng đối với sự thành công của các dự án năng lượng tái
tạo tại Việt Nam.
Hiện có một số tổ chức tài chính quốc tế
đang tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Ngân hàng Thế giới
đã khởi động Dự án Phát triển Năng lượng Tái tạo cho Việt Nam.
Dự án trị giá 318 triệu đô la này nhằm tăng
cường cung cấp điện cho lưới điện quốc gia từ các nguồn năng lượng tái tạo.
Ngoài ra, chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Thế giới
và các bên liên quan khác đã xây dựng kế hoạch đầu tư nhằm huy động 250 triệu
đô la từ Quỹ Công nghệ sạch để nhắm mục tiêu đầu tư các-bon thấp vào các lĩnh
vực điện, giao thông và công nghiệp. Một tổ chức tài chính quốc tế khác đang
hoạt động tại Việt Nam là Ngân hàng Đầu tư Châu Âu (EIB). Năm 2012, EIB đã khởi
động một chương trình trị giá 250 triệu euro để tài trợ cho các dự án năng
lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam. Các dự án năng lượng tái tạo
ứng viên có thể là bất kỳ dự án quy mô nhỏ nào trong các lĩnh vực thủy điện,
phong điện, mặt trời, địa nhiệt và năng lượng sinh khối. Tổng mức đầu tư của
một dự án đủ điều kiện phải dưới 25 triệu euro, trong đó vốn chủ sở hữu chiếm
ít nhất 30%. Một số tổ chức tài chính khác đang hoạt động tại Việt Nam là Ngân
hàng phát triển KfW, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển
Châu Á, Dragon Capital và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ[8].
Một số dự án năng lượng tái tạo nhằm giảm
phát thải ở Việt Nam phù hợp để mua các dự án giảm phát thải đã được chứng nhận
(CERs) theo Cơ chế Phát triển Sạch (CDM). Các khoản tín dụng khả dụng này có
thể được các nước công nghiệp phát triển sử dụng để đáp ứng một phần các mục
tiêu giảm phát thải của họ theo Nghị định thư Kyoto. Người mua ký một thỏa
thuận với chủ dự án địa phương để có được các quyền đối với CERs từ dự án. Có
một vài ví dụ về các dự án thủy điện, năng lượng sinh học và năng lượng gió ở
Việt Nam, với các CER đã đăng ký ở Việt Nam[9].
Giá điện, FiT và miễn thuế
Hiện tại, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN),
thông qua các công ty con, nắm độc quyền truyền tải và phân phối điện, và là nhà
mua buôn điện duy nhất từ các máy phát điện. Chính phủ đã đề ra tầm nhìn về
một thị trường điện cạnh tranh, sẽ được thực hiện đầy đủ ở cấp độ bán buôn vào
năm 2021 và cấp độ bán lẻ vào năm 2023. Chính phủ quy định chặt chẽ giá bán lẻ,
theo khuyến nghị của Bộ Công Thương (Bộ Công Thương) và cần được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ. Một biểu thuế thống nhất được áp dụng trên toàn quốc
và thấp so với các nước trong khu vực.
Ví dụ: Giá điện ở Việt Nam là 7.2-13.0 US
cent/kWh, so với 15.63-21.00 US cent/kWh ở Campuchia[10].
Để kích thích sản xuất năng lượng tái tạo,
Biểu thuế nhập khẩu (FiT) đã được áp dụng tại Việt Nam năm 2011. FiT do Bộ Công
Thương đề xuất và Thủ tướng Chính phủ quyết định. FiT là một yếu tố quan trọng
trong việc xây dựng một đề xuất khả thi cho các dự án năng lượng tái tạo mới.
Giá FiT hiện tại cho năng lượng gió ở Việt Nam là 7,8 US cent/kWh với thời hạn
của Hợp đồng mua bán điện là 20 năm. Hiện tại, Bộ Công Thương đang soạn thảo
Quyết định mới để tăng giá FiT cho năng lượng gió ở Việt Nam.
Ngoài ra, tất cả các dự án điện năng lượng
tái tạo cũng được hưởng lợi từ việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu để tạo tài sản cố định của dự án, nguyên vật liệu và bán thành phẩm chưa
sản xuất trong nước. Hơn nữa, các dự án năng lượng tái tạo có thể được hưởng
lợi từ việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp [11].
Ngoài ra, tất cả các dự án điện năng lượng
tái tạo cũng có thể được hưởng lợi từ việc miễn thuế nhập khẩu thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu để hình thành tài sản cố định, nguyên vật liệu và bán thành
phẩm của dự án không được sản xuất trong nước. Hơn nữa, các dự án năng lượng
tái tạo có thể được hưởng lợi từ một giảm thuế thu nhập doanh nghiệp [12].
4. Kết luận
Nhìn chung, với những yếu tố đang có từ tài
nguyên đến con người, nếu được khai thác và phát huy một cách phù hợp và đúng đắn
thì năng lượng tái tạo tại Việt Nam sẽ là một mảng đầu tư vô cùng hấp dẫn.
Bên cạnh những khó khắc và thách thức mà chúng
ta hoàn toàn có thể khắt phục thì việc định hướng đúng từ Nhà nước và nhà đầu tư
sẽ giúp chúng ta ngày càng phát triển năng lượng tái tạo, mảng năng lượng xanh
mà rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đang hướng đến./.
[1] https://cdnmedia.baotintuc.vn/Upload/DmtgOUlHWBO5POIHzIwr1A/files/2021/02/13/dien-gio-130221.jpg
[2] Đánh giá, Chiến lược và Lộ trình Năng lượng
Việt Nam.
[3] Chiến lược phát triển năng lượng tái
tạo Việt Nam 2016-2030 và triển vọng đến năm 2050.
[4] Hướng dẫn đầu tư điện gió. Tập 2: Tài
trợ điện gió ở Việt Nam.
[5] Cơ chế tài trợ cho sử dụng năng lượng
hiệu quả và năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
[6] Năng lượng tái tạo ở Việt Nam: Cơ hội
đầu tư.
[7] Năng lượng tái tạo ở Việt Nam: Cơ hội đầu tư.
[8] Cơ chế tài trợ cho sử dụng năng lượng
hiệu quả và năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
[9] Cơ chế phát triển sạch Việt Nam Thị trường
CDM - Góc nhìn của người mua chứng chỉ phát thải – Tiến sĩ Oliver Massmann
[10] https://en.wikipedia.org/wiki/Electricity_pricing
[11] Tình hình phát triển điện gió và khả năng
cung ứng tài chính cho các dự án ở Việt Nam
[12] Thực trạng phát triển
điện gió và nguồn vốn cho các dự án này ở Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét